Giải quyết trường hợp sổ đỏ bị cấp sai thông tin như thế nào là một vấn đề không đơn giản, nhất là trong trường hợp sổ đỏ đã được cấp từ nhiều chục năm trước.
Bố tôi có một thửa đất ở diện tích 189 m2, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 1988. Năm 1993, bố tôi chuyển nhượng cho bà A 50m2, cho tôi sử dụng 89m2. bà A đã được cấp GCNQSDĐ nhưng tôi thì chưa được cấp GCNQSDĐ. Thế nhưng trên GCNQSDĐ của bố tôi có ghi ở trang 4 về việc bán 50m2 cho bà A và thừa kế cho tôi 89m2.
Năm 1994, bố tôi bán 50m2 còn lại cho anh B (có giấy tờ UBND xã chứng thực). Cùng năm, anh B mua của bà A 50m2, hợp thành một thửa 100m2 và xây dựng nhà ở từ đó đến nay. Hiện nay thửa đất ban đầu của bố tôi do tôi sử dụng 89m2 và anh B sử dụng 100m2. Tuy nhiên, hiện chỉ có sổ của bà A và sổ đỏ của bố tôi ghi trang 4 là đã chuyển nhượng 50m2 và thừa kế cho tôi 89m2, phần ghi này UBND xã đóng dấu).
Nhờ Luật sư tư vấn và giải quyết giúp gia đình tôi. Trân trọng cảm ơn.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, xác định thời điểm khách hàng được bố tặng cho và chuyển nhượng cho người khác là trước ngày 15/10/1993, thời điểm này Luật Đất đai 1987 đang có hiệu lực không cho phép các giao dịch mua bán tặng cho đất đai.
Mặc dầu vậy, thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trong Luật Đất đai 1987 đã nêu rõ: Cấp nào có thẩm quyền ra quyết định giao đất thì cấp đó cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Điều 13 Luật Đất đai 1987 quy định: Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định giao đất khu dân cư nông thôn cho nhân dân làm nhà ở theo kế hoạch đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương xét duyệt. Uỷ ban nhân dân quận có thẩm quyền giao đất chưa sử dụng cho các tổ chức và cá nhân sử dụng có thời hạn hoặc tạm thời để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp.
Trên thực tế, UBND cấp xã đã chứng thực giao dịch, ghi vào trang sau của giấy chứng nhận điều chỉnh diện tích tặng cho, diện tích bán cho người khác là chưa đúng quy định.
Căn cứ Khoản 2 Điều 152 Luật Đất đai 2024 quy định về đính chính, thu hồi, huỷ giấy chứng nhận đã cấp như sau:
“Nhà nước thu hồi giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:
…
– Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai tại thời điểm cấp giấy chứng nhận.”
Như vậy đối chiếu với quy định trên, với trường hợp của khách hàng chúng tôi đã hỗ trợ công dân thực hiện quyền kiến nghị cơ quan có thẩm quyền Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Căn cứ Khoản 1 Điều 136, Luật Đất đai 2024, cơ quan nào có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận sẽ là cơ quan có thẩm quyền thu hồi.
Trường hợp cấp đăng ký biến động thì chi nhánh VPĐK đất đai là cơ quan có thẩm quyền cấp sổ đỏ, cũng là cơ quan có thẩm quyền thu hồi. Do vậy, cơ quan có thẩm quyền thu hồi sổ đỏ trong trường hợp thực tế khách hàng là VPĐK đất đai quận Hà Đông.
Khi người dân phát hiện Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của mình bị cấp sai thì được thực hiện quyền:
Chi nhánh VPĐK đất đai có trách nhiệm kiểm tra, xem xét, quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai.
Chi nhánh VPĐK đất đai ra quyết định thu hồi sổ đỏ đã cấp.