Những tài sản được hình thành và tạo lập trong hôn thời kỳ hôn nhân, sau khi ly hôn sẽ được chia theo quy định Pháp luật. Vậy, sổ đỏ đứng tên chồng vợ có được hưởng không? Vậy, với trường hợp này, pháp luật quy định như thế nào? Cùng tìm hiểm qua bài viết sau.
Khi ly hôn, nhiều người vợ thắc mắc rằng: “Sổ đỏ đứng tên chồng vợ có được hưởng quyền lợi như thế nào?” Để trả lời được điều này, cần xác định tài sản đó thuộc về quyền sở hữu riêng hay chung.
Theo Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, tài sản được mua trong thời kỳ hôn nhân, theo nguyên tắc đó là tài sản chung của vợ chồng, trừ khi có các thỏa thuận khác. Do vậy, nhà đất được xác lập quyền sở hữu trong thời điểm này mặc dù chỉ đứng tên chồng, người vợ vẫn bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Bất kỳ các giao dịch mua bán, chuyển nhượng đều cần sự đồng thuận và chữ ký từ hai bên.
Trường hợp chồng đơn phương thực hiện các hợp đồng với tài sản này mà không có sự đồng ý của vợ, hợp đồng bị tuyên vô hiệu. Theo Điều 219 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định vợ được quyền yêu cầu và hưởng tài sản phân chia sau khi ly hôn.
Trường hợp sổ đỏ đứng tên chồng và được xác định là tài sản riêng: Có trước khi kết hôn hoặc là tài sản được cho, tặng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân, theo quy định tại Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 vợ không có quyền chuyển nhượng, sở hữu đối với tài sản này.
Theo Điều 98 Luật Đất đai 2013 quy định trên Giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở thuộc tài sản chung phải ghi cả tên hai vợ chồng. Trường hợp sổ đỏ cũ chỉ đứng tên chồng, vợ có quyền yêu cầu được cấp đổi sang sổ mới (Theo khoản 1 Điều 76 Nghị định 43/2014/NĐ-CP).
Theo khoản 1 Điều 10 Thông tư 24/2014/TT-BTNMT, hồ sơ cấp đổi sổ đỏ sẽ bao gồm:
Quy định tại khoản 2 Điều 60 Nghị định 43/2014/NĐ-CP, người yêu cầu sau khi chuẩn bị đầy đủ giấy tờ sẽ gửi đến Văn phòng đăng ký đất đai hoặc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai. Các cán bộ xem xét hồ sơ, yêu cầu bổ sung hoặc cung cấp giấy hẹn có thời gian trả kết quả cụ thể. Đến thời gian này, bạn chỉ cần lên cơ quan có thẩm quyền và nhận về sổ đỏ mới có cập nhật đầy đủ tên hai vợ chồng.
Căn cứ theo quy định tại Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Khi người chồng mất, bên còn sống là vợ sẽ có quyền quản lý di sản, trừ trường hợp di chúc chỉ định người khác.
Nếu có bất kỳ yêu cầu nào về việc phân chia, phần tài sản chung của chồng trong tài sản chung của gia đình và tài sản riêng sẽ được xem là di sản thừa kế. Theo quy định tại Điều 651, Bộ luật Dân sự 2015, vợ thuộc hàng thừa kế thứ nhất bên cạnh con cái và cha mẹ chồng. Nếu chồng không để lại di chúc, tài sản của chồng sẽ được chia theo Pháp luật và người vợ được hưởng do thuộc hàng thừa kế ưu tiên. Trường hợp chồng có để lại di chúc vợ có quyền hưởng tài sản theo di chúc (nếu có).