“Em có người nhà đang thụ án 30 tháng tù với tội danh mua bán hóa đơn tại Đà Nẵng, đã chấp hành được 24 tháng còn 6 tháng nữa là được về. Hiện người nhà chưa khắc phục hết hậu quả cho nhà nước. Vừa rồi lại bị kỉ luật trong trại giam. Vậy em xin tư vấn với tình hình này thì người nhà em có được hưởng quy định tha tù trước thời hạn có điều kiện theo pháp luật hiện hành không?”
Không áp dụng quy định tha tù trước thời hạn có điều kiện thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù hoặc người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm ít nghiêm trọng có thể được tha tù trước thời hạn khi có đủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất: Phạm tội lần đầu.
Căn cứ Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 quy định các trường hợp được coi là phạm tội lần đầu gồm:
Thứ hai: Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt.
Căn cứ Khoản 3 Điều 2 Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 quy định về tiến bộ, ý thức cải tạo tốt là:
Ví dụ: Nguyễn Văn A bị kết án 18 năm. Tính đến ngày 31 tháng 3 năm 2019, A đã chấp hành án được 11 năm tù. Để đủ điều kiện xét tha tù trước thời hạn có điều kiện (trong Quý I/2019), thì Nguyễn Văn A phải được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên của 12 quý liên tục liền kề như sau: Quý I/2019; Quý I, II, III, IV/2018; Quý I, II, III, IV/2017; Quý II, III, IV/2016.
Thứ ba: Có nơi cư trú rõ ràng.
Nơi cư trú là nơi tạm trú hoặc thường trú theo quy định của Luật Cư trú mà người được tha tù trước thời hạn có điều kiện về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được tha tù.
Nơi cư trú rõ ràng là nơi cư trú có địa chỉ được xác định cụ thể.
Thứ tư: Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền và án phí là đã nộp đầy đủ các khoản tiền phạt và án phí thể hiện ở các biên lai, chứng từ hoặc có quyết định miễn chấp hành hình phạt tiền, miễn nộp án phí của Tòa án.
Đã chấp hành xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là một trong các trường hợp: Đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo bản án, quyết định của Tòa án; có quyết định đình chỉ thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền; có thỏa thuận bằng văn bản của bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại về việc không phải thi hành nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo bản án, quyết định của Tòa án được cơ quan có thẩm quyền xác nhận.
Thứ năm: Đã chấp hành được ít nhất một phần hai mức phạt tù có thời hạn; ít nhất là 15 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn.
Thời gian đã chấp hành án phạt tù là thời gian người đó bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành án phạt tù trong các cơ sở giam giữ hoặc thời gian người đó bị bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, không kể thời gian được tại ngoại, được hoãn, tạm đình chỉ và thời gian được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Thời gian đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù (nếu có) được tính để trừ vào phần thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại.
Ví dụ: Nguyễn Văn B bị kết án 18 năm tù. Tính đến ngày 31 tháng 3 năm 2019, Nguyễn Văn B đã chấp hành án được 11 năm tù. Trong quá trình chấp hành án, B được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù 01 năm, nên thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại là 06 năm.
Trường hợp người đang chấp hành án phạt tù là người có công với cách mạng, thân nhân của người có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì phải chấp hành được ít nhất là một phần ba mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 12 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn.